Một khoảnh vỉa hè, chiếc bàn gỗ nhỏ, mấy chén trà nghi ngút khói… sang thêm thì mấy chiếc kẹo lạc, vài điếu thuốc… cũng đủ làm “mồi” cho trăm thứ chuyện trên trời dưới biển. Địa thế tuy chật hẹp mà không gian lại vô biên, đấy là văn hóa trà chén.
Khi bình minh lên, Hà Nội bắt đầu một ngày mới. Nhưng nhịp sống của đời thường không bắt đầu từ phía sau cánh cửa của mỗi gia đình hay các công sở, chợ búa… mà bao đời nay bình minh trên phố thức dậy cùng ánh sáng đèn của những quán trà chén khiêm nhường trên vỉa hè phố. Hà Nội hiện có tới 610 tuyến phố khang trang, hiện đại và đương nhiên cũng tấp nập, sầm uất hơn nhiều so với ba bốn mươi năm về trước. Thời bấy giờ người già, con trẻ tối tối thường ra ngồi trước cửa nhà hóng gió. Hộ có nhà mặt phố năn nỉ với hàng xóm xin được đổi lên tầng hai yên tĩnh hơn. Hộ có những căn nhà mặt tiền (chân đê Trần Khát Chân, Hoàng Hoa Thám…) lại nhìn những căn hộ dãy nhà phía sau với ánh mắt thèm muốn. Những năm tháng ấy, đường phố yên tĩnh lắm, trẻ con chạy đuổi nhau thoải mái dưới những tán cây cổ thụ.
Khác chăng là hình ảnh leo lét ánh đèn dầu trên chiếc bàn gỗ vẹo vọ, bán nước trà chén của mấy cụ già. Một cái ấm tích, chục chiếc chén (ít khi được trắng bong như bây giờ), vài lọ kẹo lạc, kẹo dồi, mấy chiếc bánh gai, bánh tẻ… Vậy nhưng là nơi thu hút cánh đàn ông với những câu chuyện “vô tiền khoáng hậu”. Từ chuyện trong nhà ngoài ngõ đến chuyện bên trời tây. Những câu chuyện thời cuộc bao giờ cũng hấp dẫn cánh đàn ông nhất, đây là những chuyện về chiến tranh.
Hè nắng như đổ lửa, gió mùa đông bắc heo hút tê tái đến rúm người. Mặc! Cứ đúng “tầm”, chẳng hẹn mà quán trà lại đông người. Quán thời đó mời gọi khách chủ yếu là ở mỗi cái “tang” chè, phải là loại chè “móc câu” của Thái chuyển về, thuốc lá toàn không đầu lọc, đấy chính là thời “hoàng kim” của những điếu cày. Nhiều ông chủ quán kỹ tính, việc dọn hàng, đun nước, tráng ấm vào lúc sáng sớm là của bà lão, còn ông loay hoay gần nửa tiếng đồng hồ để rồi thông điếu, nhiều hàng xóm cứ căn theo tiếng rít ròn tan khi ông lão thử điếu cày để thức dậy, thay cho đồng hồ báo thức. Một thời Hà Nội là vậy, đã định hình và tạo văn hóa trà chén, mỗi thứ văn hóa vỉa hè tiếp nối tập tục sinh hoạt kiểu làng, kiểu chợ quê. Ngày nay, giữa muôn vàn nhà hàng máy lạnh, cửa hàng hiệu sách, uống nước trà chén vẫn không hề bị “cơn lốc” thời đại xóa nhòa.
Ở những phố cũ, phố cổ tuy chẳng còn nhiều như trước kia, nhưng vẫn còn những quán trà chén mộc mạc, có ý nghĩa vẫn là cái “tang” chè móc câu Thái Nguyên. Khách kêu chén trà nóng, chủ hàng đủng đỉnh cặp chiếc chén bằng cây kép tre, dúng vào nồi nước đang sôi, tráng qua tráng lại dơ lên cho ráo nước rồi mới rót trà đặt trước mặt khách.
Lạ! Từ xưa các bà cứ thắc mắc, cái thứ nước đậm đặc màu xanh trộn sắc nắng vàng, hương ngai ngái, uống vào chát xít, uống vào còn mất ngủ sao vẫn mê hoặc được các ông ấy? Mà từ xa xưa đến nay đàn ông Hà Nội còn có thói quen riêng, thích ngồi co ro giữa cái giá lạnh, rụt đầu vào cái áo blouson dựng ngược, cầm chén trà nóng nghi ngút khói ấp trong lòng bàn tay. Người sành uống trà ít ai nhấc lên uống ngay mà cứ phải hít hà, đưa qua đưa lại mũi ngửi lấy cái hương thơm, cái nồng nàn của chén trà nóng, lim dim mắt rồi mới khẽ nhấp ngụm trà.
Có pha, uống trà thể nào cũng chẳng thể nào bằng ra quán, tràn ngập không khí đường phố, vô tư trò chuyện với nhau, đủ thứ chuyện tới mức “Thông tấn xã” chịu thua “vỉa hè”. Mỗi quán trà là một cộng đồng nhỏ, kẻ ngồi trong nhà, người trên vỉa hè thoải mái chuyện trò, tạm lãng quên những ưu phiền cuộc sống. Một vài vị khách nước ngoài thích khám phá cũng quen dần và tìm ra cái thú uống trà với những người bản địa mà trước đó họ chẳng hề quen biết. Phải chăng vì sự bình dị, nét văn hóa lạ lùng ấy khiến mấy ông tây mũi lõ mới thật sự cảm thấy hòa mình với cộng đồng, với không gian mang đậm bản sắc Á Đông ở chốn này.
Tôi có anh bạn, từ khi anh còn là công chức cho đến khi về hưu, anh vẫn “nghiện” ngồi uống trà chén. Hồi còn làm “sếp”, nếu cần gặp anh mà không phải việc công, bất kể ai anh cũng hẹn ra quán trà tuốt. Đến chơi nhà, anh cũng tiếp mươi, mười lăm phút cho phải đạo, rồi lại nhắc khéo: “cạnh nhà tớ có quán trà chén vỉa hè hay lắm…”. Anh tâm sự, ở phòng làm việc hay ở nhà, lúc nào cũng có trà ngon, nhưng không thể có không khí cởi mở, vô tư như ở ngoài quán. Rồi anh kết luận, cái văn hóa trà chén vừa lạ lại vừa quen, ông cứ thử vài lần mà xem, khó bỏ được.
Nhiều khi chỉ dăm vị công chức, đôi ba vị khách qua đường, tóm lại hơn chục vị khách là quán đã “khởi sắc” lắm rồi, đông hơn quán trà “giãn nở” quanh gốc cây, góc phố, dọc vỉa hè trên những chiếc ghế con con, những manh chiếu san sát, nhưng thế mới thấy “ngấm” hết cái thú vị của trà chén. Bây giờ văn hóa trà chén tuy vẫn tồn tại, nhưng bị biến tướng khá nhiều. Đằng sau những chén trà “thứ phẩm”, những chai coca, 7up… là những bảng ghi lô đề, là điểm “phát sóng” của kênh cá độ và của cả không ít điều nhức nhối của xã hội nữa.
Tìm một quán trà chén ngon giữa thành phố bây giờ quả không dễ. Khách thập phương bảo rằng, Hà Nội chả thiếu những góc đẹp mê hồn để ngồi, để ngắm mà thư giãn. Cái góc ở khách sạn Metropole trông sang phía vườn hoa con Cóc chẳng hạn, nhiều người bảo đấy là “góc” châu Âu duy nhất ở thủ đô. Khách sạn Sofitel Metropole HaNoi đã phải “nhọc nhằn” để mở quán cà phê, quán trà trên vỉa hè của khách sạn, chỉ với mục đích tái tạo một khung cảnh văn hóa ngay giữa lòng thành phố như Paris.
Thời nay, Hà Nội vẫn âm thầm duy trì dòng chảy văn hóa ẩm thực vỉa hè. Quán nhỏ, chỗ ngồi ít, đồ ăn thức uống đơn giản mà lúc nào cũng đông khách đến lạ. Phần đông người đến đây ngồi vì bầu không khí vỉa hè sống động của nó. Sớm cũng như tối, mấy chén trà nóng, chỉ vài ba người quây quanh chiếc ghế “đẩu” được dùng làm bàn, chuyện trò tán ngẫu, rôm rả. Chuyện đời, chuyện người… bỗng như thấy được cái hồn, sự tinh tế đến nhọc nhằn của người pha lẫn kẻ uống. Còn một nét văn hóa căn bản của quán nước trà chén mà phòng trà không thay thế được, đấy là sự bình dị dân dã mà vô cùng gần gũi, chỉ ở chốn này cái ranh giới về tuổi tác, sự khác biệt về địa vị, chỗ đứng trong xã hội bỗng nhạt nhòa, tự nhiên như chính bản chất vốn có tự bao giờ của ấm trà.
Theo Vũ Lưu
Lấy từ Blog Ế bồ